Altrenogest là Progesterone dạng hoạt động được cấp qua đường uống và cơ chế hoạt động giống với Progesterone tự nhiên giúp ngăn cản/ức chế sự động dục của nái.
Altrenogest được cung cấp qua đường miệng giúp ngăn cản/ ức chế chu kỳ động dục và giới hạn biểu hiện lên giống cũng như sự rụng trứng. Khi dừng việc cung cấp Altrenogest, sự phóng thích các hormone tự nhiên sẽ tự động diễn ra. Vùng dưới đồi phóng thích hormone GnRH, tuyến yên phóng thích hormone FSH và LH cho nên nái trở lại động dục một cách tự nhiên. Cần phải hiểu rõ rằng, Altrenogest không có chức năng gây ra sự động dục trên nái mà nó ngăn cản/ức chế sự động dục của nái trong suốt quá trình bổ sung Altrenogest; vì thế, chu kỳ động dục của nái sẽ khởi động trở lại sau khi ngưng dùng Altrenogest.
Tầm quan trọng của số ngày nái lên giống sau khi cai sữa.
Thời gian lên giống sau cai sữa bị kéo dài được xem là một trong những yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sinh sản tại trại (biểu đồ 01 và 02), cho nên nái có thời gian lên giống từ:
Biểu đồ 1: Ảnh hưởng của số ngày lên giống sau cai sữa đến tỷ lệ đẻ
Biểu đồ 2: Ảnh hưởng của số ngày lên giống sau cai sữa đến tổng số con sinh ra
Altrenogest được dùng như thế nào?
Việc sử dụng Altrenogest lúc cai sữa có hiệu quả cho cả nái vừa mới kết thúc chu kỳ nuôi con lần đầu tiên và cho cả những nái có thể trạng kém lúc cai sữa ở bất kỳ lứa đẻ nào. Altrenogest cho phép:
Quy trình sử dụng
Mặc dù trước đây Altrenogest được khuyến cáo bắt đầu sử dụng đúng vào ngày nái cai sữa, tuy nhiên ngày nay được nhiều khuyến cáo nên bắt đầu sử dụng từ 01 ngày trước khi bắt đầu cai sữa – không bao giờ sử dụng sau ngày cai sữa. Đề xuất sử dụng được nêu rõ ở biểu đồ 03.
Nếu thực hiện việc so sánh với phương pháp truyền thống – bỏ qua chu kỳ lên giống đầu tiên sau khi cai sữa – chúng ta có thể thấy phương pháp mới – sử dụng Altrenogest trong 11 hay 12 ngày sau cai sữa – giúp làm giảm được 15 ngày không sản xuất (NPD) so với 26 ngày không sản xuất (NPD).
Biểu đồ 03: quy trình sử dụng Altrenogest cho những nái có thể trạng kém khi cai sữa lứa đầu tiên
Hai ngày trước khi cai sữa, cần phân loại nái cai sữa lứa đầu tiên và những nái có thể trạng gầy ở tất cả các lứa đẻ. Ngày sau đó – 01 ngày trước khi cai sữa – Altrenogest bắt đầu được cấp cho nhóm này. Altrenogest cũng được cho ăn vào ngày cai sữa và những nái này cũng áp dụng quy trình tương tự như những nái còn lại bao gồm quy trình cai sữa, khu vực chuồng nuôi, nguồn dinh dưỡng kể cả việc cho ăn tự do (flushing) và sử dụng cám nuôi con.
Altrenogest được tiếp tục cho ăn thêm 06 ngày sau khi cai sữa đảm bảo tổng ngày sử dụng Altrenogest là 08 ngày (01 ngày trước khi cai sữa + ngày cai sữa + 06 ngày sau cai sữa). Theo quy trình này thì ngày cuối cùng sử dụng Altrenogest là 01 ngày trước khi cai sữa nhóm nái kế tiếp theo quy trình thông thường của trại. Bởi vì, những nái sử dụng Altrenogest sẽ tự động lên giống sau khi ngừng sử dụng Altrenogest được 04 – 05 ngày tương ứng với nhóm nái cai sữa thông thường. Những nái được hỗ trợ điều trị bằng Altrenogest sẽ được xếp chung vào nhóm nái sản xuất kế tiếp.
Nếu phương pháp này được áp dụng đều đặn thì số lương nái phối theo tuần sẽ không bị giảm (ngoại trừ nhóm đầu tiên khi bắt đầu áp dụng) bởi vì mỗi tuần đều có một số nái sẽ được chuyển qua nhóm phối kế tiếp, và chính bản thân của nhóm phối này cũng sẽ nhận những nái từ nhóm trước đó chuyển sang. Vì thế, số lượng nái phối hầu như sẽ được duy trì ổn định và chuỗi năng suất sẽ không bị ảnh hưởng.
Biểu đồ 04: Kết quả của việc sử dụng Altrenogest trên nái lứa 02 ngày sau trong vòng 07 ngày cai sữa đối với tỷ lệ đậu thai
Biểu đồ 05: Kết quả của việc sử dụng Altrenogest trên nái lứa 02 ngày sau trong vòng 07 ngày cai sữa đối với tổng số con sinh ra
Biểu đồ 06: Kết quả của việc sử dụng Altrenogest trên nái lứa 02 ngày sau trong vòng 07 ngày cai sữa đối với số ngày không sản xuất. (Nguồn: C. Pereida et al. IPVS Cancún (Mexico) 2012. Được thực hiện tại trại 1,850 nái)
Nghiên cứu
Tại IPVS 2012, Pereida và cộng sự đã mang đến những điều có giá trị về việc sử dụng Altrenogest trên nhóm nái cai sữa lứa 01 trong vòng 07 ngày từ khi cai sữa và sự cải thiện năng suất trên những nái này ở lứa 02 được thể hiện ở biểu đồ số 04, 05 và 06:
Việc giảm số ngày không sản xuất và tăng năng suất sinh sản (tỷ lệ đẻ và số con sinh ra) rõ ràng đã bù lại phần chi phí trong việc sử dụng Altrenogest.
Dĩ nhiên, để hạn chế sự suy giảm thể trạng của nái, chiến lược gia tăng lượng ăn cho nái trong giai đoạn nuôi con cần được áp dụng bao gồm:
Virbac Team
http://www.repropigdigitalmagazine.com/EN/Repropig4/assets/resources/Second_parity_syndrome.pdf