Ưu điểm nổi trội của kháng sinh Tulathromycin trong phòng trị bệnh hô hấp

Score5 (1 Votes)

Kháng sinh Tulathromycin

Kháng sinh Tulathromycin đã được chứng minh là một giải pháp hiệu quả và an toàn trong phòng trị các bệnh hô hấp trong chăn nuôi. Đây là một chất kháng khuẩn bán tổng hợp thuộc nhóm macrolide, có nguồn gốc từ việc lên men có tác dụng điều hòa miễn dịch và chống viêm cực kỳ hiệu quả. Vậy Tulathromycin có cơ chế hoạt động gì đặc biệt mà mang lại những ưu điểm rất được ưa chuộng như vậy trong chăn nuôi?

1. Đặc tính dược lực học

Tulathromycin khác với các macrolide khác ở chỗ nó có thời gian tác dụng dài, một phần là do ba nhóm amin trong cấu trúc; chính vì vậy, Tulathromycin thuộc phân lớp hóa học triamide. Macrolide là kháng sinh có tác dụng kìm khuẩn và ức chế quá trình sinh tổng hợp protein thiết yếu nhờ khả năng liên kết chọn lọc của chúng với ribosom RNA của vi khuẩn. Chúng hoạt động bằng cách kích thích sự phân ly của peptidyl-tRNA khỏi ribosome trong quá trình chuyển vị.

Nghiên cứu in vitro, Tulathromycin có hoạt tính chống lại Actinobacillus pleuropneumoniae, Pasteurella multocida, Mycoplasma hyopneumoniae, Haemophilus parasuisBordetella bronchiseptica, các vi khuẩn gây bệnh phổ biến trên đường hô hấp bò và heo. Sự gia tăng nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) được ghi nhận ở một số chủng Actinobacillus pleuropneumoniae phân lập. Khả năng chống lại Dichelobacter nodosus (vir), vi khuẩn gây bệnh thối móng truyền nhiễm ở cừu của Tulathromycin cũng đã được chứng minh trong điều kiện in vitro.

Nghiên cứu in vitro khác, Tulathromycin cũng có hoạt tính chống lại Moraxella bovis, vi khuẩn phổ biến gây bệnh viêm kết mạc truyền nhiễm trên bò (IBK).

Đề kháng với các macrolide có thể xảy ra do đột biến gen mã hóa ribosom RNA (rRNA) hoặc một số ribosom protein; bằng cách biến đổi enzym (methyl hóa) vị trí đích 23S rRNA, làm phát sinh tính đề kháng chéo với lincosamide và streptogramins nhóm B (kháng MLSB); bằng cách làm bất hoạt enzyme; hoặc bơm đẩy chủ động đẩy macrolide ra khỏi tế bào. Đề kháng MLSB có thể là gen cấu tạo hoặc cảm ứng. Sự đề kháng có thể được mã hóa bởi nhiễm sắc thể hoặc plasmid và có thể chuyển giao được nếu liên kết với các transposons hoặc plasmid.

Ngoài các đặc tính kháng khuẩn, Tulathromycin thể hiện tác dụng điều hòa miễn dịch và chống viêm trong các nghiên cứu thực nghiệm. Ở cả tế bào bạch cầu đa nhân trung tính của heo (PMNs; bạch cầu trung tính), Tulathromycin thúc đẩy quá trình apoptosis (tế bào chết theo chương trình) và đào thải tế bào chết bởi đại thực bào. Nó làm giảm việc sản xuất các chất trung gian gây viêm leukotriene B4 và CXCL-8 và tạo ra lipoxin A4 chống viêm và phân giải lipid.

Uu diem Tula.jpg

2. Đặc tính dược động học
  • Ở gia súc, đặc điểm dược động học của Tulathromycin khi tiêm dưới da một liều duy nhất 2,5 mg/kg thể trọng, được đặc trưng bởi sự hấp thu nhanh và rộng, sau đó là sự phân bố cao và bài thải chậm. Nồng độ tối đa (Cmax) trong huyết tương xấp xỉ 0,5 µg/ml; đạt được khoảng 30 phút sau khi dùng thuốc (Tmax). Nồng độ Tulathromycin phân bố đồng nhất ở phổi cao hơn đáng kể so với trong huyết tương. Có bằng chứng rõ ràng về sự tích tụ đáng kể của Tulathromycin trong bạch cầu trung tính và đại thực bào phế nang. Tuy nhiên trong in vivo, nồng độ của Tulathromycin tại vị trí nhiễm trùng của phổi không được biết. Nồng độ đỉnh được theo sau bởi sự giảm tiếp xúc toàn thân chậm với thời gian bán thải rõ ràng (t1/2) trong huyết tương là 90 giờ. Liên kết với protein huyết tương thấp, khoảng 40%. Thể tích phân bố ở trạng thái ổn định (Vss) được xác định sau khi tiêm tĩnh mạch là 11 L/kg. Sinh khả dụng của Tulathromycin sau khi tiêm dưới da ở gia súc là khoảng 90%.

  • Ở heo, đặc điểm dược động học của Tulathromycin khi tiêm một liều tiêm bắp 2,5 mg/kg thể trọng, cũng được đặc trưng bởi sự hấp thu nhanh và rộng, sau đó là sự phân bố cao và bài thải chậm. Nồng độ tối đa (Cmax) trong huyết tương xấp xỉ 0,6 µg/ml, đạt được khoảng 30 phút sau khi dùng thuốc (Tmax).

Nồng độ Tulathromycin phân bố đồng nhất ở phổi cao hơn đáng kể so với trong huyết tương. Có bằng chứng rõ ràng về sự tích tụ đáng kể của Tulathromycin trong bạch cầu trung tính và đại thực bào phế nang. Tuy nhiên trong in vivo, nồng độ của Tulathromycin tại vị trí nhiễm trùng của phổi không được biết. Nồng độ đỉnh được theo sau bởi sự giảm tiếp xúc toàn thân chậm với thời gian bán hủy thải trừ rõ ràng (t1/2) trong huyết tương là 91 giờ. Liên kết với protein huyết tương thấp, khoảng 40%. Thể tích phân bố ở trạng thái ổn định (Vss) được xác định sau khi tiêm tĩnh mạch là 13,2 L/kg. Sinh khả dụng của Tulathromycin sau khi tiêm bắp ở heo là khoảng 88%.

Ở cừu, đặc điểm dược động học của Tulathromycin, khi dùng một liều tiêm bắp duy nhất 2,5 mg/kg thể trọng, đạt được nồng độ tối đa trong huyết tương (Cmax) là 1,19 µg/ml sau khi dùng thuốc khoảng 15 phút (Tmax) và thời gian bán thải (t1/2) 69,7 giờ. Liên kết với protein huyết tương là khoảng 60-75%. Sau khi tiêm tĩnh mạch, thể tích phân bố ở trạng thái ổn định (Vss) là 31,7 L/ kg. Sinh khả dụng của Tulathromycin sau khi tiêm bắp ở cừu là 100%.

Với tất cả những ưu điểm trên, tulathromycin là kháng sinh duy nhất được đăng ký dưới dạng công thức tiêm một mũi để điều trị và điều trị dự phòng đối với tất cả các mầm bệnh PRDC chính, với độ an toàn đã được chứng minh và thời gian ngừng thuốc phù hợp với chăn nuôi heo.

Vote for this content: 5 4 3 2 1